SKKN Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số qua một số trò chơi dân gian
Danh mục: Sáng kiến kinh nghiệm
Loại tài liệu: SKKN tiểu học
Thầy cô đăng nhập để tải miễn phí SKKN này nhé!
Miễn phí
Danh mục: Sáng kiến kinh nghiệm
Loại tài liệu: SKKN tiểu học
Thầy cô đăng nhập để tải miễn phí SKKN này nhé!
Miễn phí
I- PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số là một trong những chương trình đặc biệt được quan tâm của ngành giáo dục trong những năm gần đây. Bởi sự khác biệt trong học tập của các em học sinh đồng bào dân tộc thiểu số với các em học sinh người Kinh đó là các em dân tộc thường sử dụng hai ngôn ngữ trong giao tiếp cũng như trong học tập. Vì thế nó làm giảm sự phát triển về ngôn ngữ Tiếng Việt của các em. Nhất là những em học sinh lớp 1, bởi khi đặt chân lên mái trường tiểu học thì vốn ngôn ngữ Tiếng Việt của các em hết sức nghèo nàn. Đa số các em đều sử dụng tiếng mẹ đẻ để giao tiếp, thậm chí trong học tập khi các em hỏi nhau một vấn đề nào đó, các em cũng sử dụng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ. Đây là một khó khăn hết sức lớn đối với giáo viên dạy tiểu học nói chung ở các trường tiểu học có học sinh dân tộc thiểu số.
Nhận thức được vấn đề trên nên trong những năm học qua, trường tiểu học Krông Năng luôn chú trọng đầu tư để nâng cao Tiếng Việt cho học sinh dân tộc, nhất là học sinh lớp 1. Bản thân tôi là một giáo viên người đồng bào dân tộc thiểu số (Ê đê) nên tôi rất hiểu tâm lý các em. Với nhiều năm kinh nghiệm dạy lớp 1, tôi nắm bắt khá rõ về tâm sinh lí lứa tuổi những như đa số hoàn cảnh các em ở trong buôn, làng. Chính vì thế tôi thường tìm nhiều biện pháp, phương pháp dạy học hay nhất nhằm tăng cường tiếng việt cho các em học sinh dân tộc do tôi chủ nhiệm.
Năm học 2021 – 2022 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 1A với số học sinh là 25 em. Trong đó có tới 21 em là học sinh thuộc đồng bào dân tộc thiểu số (Ê đê). Vẫn là những khó khăn như tôi đã trình bày ở trên. Với chuyên môn dạy lớp 1 vững vàng và những kinh nghiệm vốn có của mình tôi liên tục tìm tòi và lựa chọn thêm nhiều phương pháp dạy học tích hợp hay, hiệu quả nhằm nâng cao Tiếng Việt cho các em. Một trong những phương pháp mà tôi nhận thấy rất hiệu quả đó là tích hợp một số trò chơi dân gian trong dạy học sẽ giúp các em hòa nhập nhanh, thân thiện hơn và nâng cao khả năng giao tiếp cho các em từ đó nâng cao kỹ năng sử dụng Tiếng Việt cho các em.
Chính vì thế tham gia thi viết sáng kiến năm học 2021 – 2022 này tôi quyết định chọn nội dung đề tài: “Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số qua một số trò chơi dân gian”
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
a. Mục tiêu đề tài:
Mục tiêu của đề tài “Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số qua một số trò chơi dân gian” là giúp học sinh đồng bào dân tộc Ê-đê nâng cao hơn khả năng sử dụng Tiếng Việt, từ đó giúp các em học tốt các môn học khác.
b. Nhiệm vụ của đề tài:
Để hoàn thành nội dung nghiên cứu của đề tài, tôi đã thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu tài liệu về những trò chơi dân gian trong cuộc sống làm căn cứ cho nội dung nghiên cứu đề tài.
- Khảo sát Nội dung các bài dạy trong các sách giáo khoa, thời gian dạy học trong thời khóa biểu để tiến hành xây dựng nội dung nghiên cứu đề tài.
- Tiến hành tích hợp thử nghiệm một số trò chơi dân gian trong tiết dạy và trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm đánh giá kết quả kĩ năng nắm bắt Tiếng Việt của các em từ đó có cái nhìn tổng quát về nội dung nghiên cứu đề tài.
- Triển khai những biện pháp có tính khả thi về một số trò chơi dân gian trong tiết dạy và trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm nâng cao Tiếng Việt cho các em học sinh dân tộc thiểu số.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Năm học 2021 – 2022 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 1A với số học sinh là 35 em. Trong đó có tới 21 em là học sinh thuộc đồng bào dân tộc thiểu số (Ê đê) nên đối tượng nghiên cứu đề tài là các em học sinh lớp 1A, trường tiểu học ……….., huyện ……………..
4. Giới hạn của đề tài.
Với thời gian nghiên cứu hạn chế cũng như kiến thức của bản thân có hạn nên đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi của trường tiểu học.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn tất nội dung nghiên cứu của đề tài, tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Là phương pháp nghiên cứu một số tài liệu về một số trò chơi dân gian để làm căn cứ cho vấn đề nghiên cứu.
b. Phương pháp khảo sát:
Là phương pháp khảo sát đối tượng học sinh, khảo sát môn học, bài học, thời khóa biểu ... để xác định nội dung nghiên cứu.
c. Phương pháp trao đổi kinh nghiệm:
Là phương pháp trao đổi với một số đồng nghiệp có kinh nghiệm dạy học lâu năm đối với cách dạy học lớp 1 về tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc để từ đó tôi xem xét và tích hợp một số trò chơi dân gian trong đề tài một cách hợp lý nhằm mang lại tính hiệu quả cao hơn của nội dung nghiên cứu.
d. Phương pháp tổng kết:
Là phương pháp tổng kết những vấn đề đã nghiên cứu và khảo sát từ đó xây dựng những biện pháp có tính khả thi trong việc tích hợp một số trò chơi dân gian nhằm tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc.
Ngoài ra tôi còn sử dụng thêm một số phương pháp khác nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu của đề tài.
II. PHẦN NỘI DUNG.
1. Cơ sở lý luận.
Đặc điểm của học sinh dân tộc thiểu số.
a. Đặc điểm nhận thức
Nhìn chung, các nét tâm lí như ý chí rèn luyện, óc quan sát, trí nhớ, tính kiên trì, tính kỉ luật,…của học sinh dân tộc thiểu số chưa được chuẩn bị chu đáo. Bên cạnh đó, nhận thức cảm tính phát triển khá tốt: cảm giác, tri giác của các em có những nét độc đáo. Tuy nhiên nó chưa hoàn thiện: cảm tính, mơ hồ không thấy được bản chất của sự vật, hiện tượng. Khả năng phân tích, tổng hợp và khái quát phát triển chậm, khả năng tư duy nói chung và khả năng tiến hành các thao tác trí óc nói riêng hình thành khó khăn. Qúa trình tư duy của các em chỉ đạt mức trung bình. Từ những đặc điểm tâm lí nói trên, có thể thấy: khả năng tư duy kinh nghiệm đạt mức cao so với trình độ chung lứa tuổi: Song khả năng tư duy lí luận còn thấp so với yêu cầu. Tri thức thói quen được hình thành bằng con đường kinh nghiệm ảnh hưởng đến quá trình tiến hành các thao tác trí tuệ của các em: Khả năng ghi nhớ có ý thức, có chủ định còn chậm đặc biệt, về ngôn ngữ dùng quen tiếng mẹ đẻ, trong khi đó quá trình nhận thức, tiếp thu tri thức ở trường lại diễn ra bằng ngôn ngữ tiếng việt. Như vậy, xét về mặt giao tiếp các em gặp khó khăn.
Học sinh dân tộc thiểu số có ưu điểm về thể chất, thể lực, có tính cách riêng, yêu lao động, quý thầy cô, tình bạn, trung thực, dũng cảm, bên cạnh những học sinh rụt rè, nhút nhát, tự ti, tự ái, có nhiều học sinh có tính tò mò, ham hiểu biết. Trong lối sống các em không bị gò bó, có những thói quen không tốt như tác phong chậm chạp, thiếu ngăn nắp, thiếu vệ sinh,...ảnh hưởng đến công tác giáo dục khi các em theo học ở trường. Vì vậy cần tăng cường rèn đọc cho học sinh dân tộc thiểu số ngôn ngữ tiếng Việt để mở rộng nhu cầu phạm vi giao tiếp trong nhà cũng như ngoài xã hội.
b. Đặc điểm tính cách của học sinh dân tộc thiểu số:
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
Khi bước chân vào trường tiểu học …………. đối tượng học sinh chủ yếu là từ ba buôn: ……………... Ở đây tuy đa số các em có tham gia học mẫu giáo 5 tuổi nhưng kĩ năng nói, viết Tiếng Việt gần như chưa có, các em chủ yếu giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ. Đây cũng là khó khăn lớn nhất của giáo viên lớp 1. Mặt khác tại gia đình các em, phụ huynh cũng giao tiếp với các em đều băng ngôn ngữ địa phương, tiếng mẹ đẻ dẫn đến vốn từ Tiếng Việt đã nghèo, các em lại nghèo hơn.
Khi ở trường, trên lớp các em được nghe cô giáo giảng bài, được luyện đọc nhưng không hiểu nội dung bài đọc; luyện viết chủ yếu chỉ viết đúng con chữ mà không viết được một bài văn hoàn chỉnh, có lúc cô giáo phải dùng cả 2 thứ tiếng để học sinh hiểu được nội dung. Còn khi ra chơi, các em lại nói với nhau bằng tiếng mẹ đẻ. Chính vì vậy nếu không nắm bắt được các yếu tố trên thì việc nâng cao sử dụng Tiếng Việt cho các em học sinh dân tộc sẽ không mang lại hiệu quả cao.
Đối với trường tiểu học Krông Năng, tuy là một đơn vị đóng trên địa bàn trung tâm cũng như trực thuộc quản lý của của UBND thị trấn Krông Năng nhưng số học sinh tham gia học tập tại trường chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các buôn: Buôn Wiao A, buôn Wiao B và buôn Ur nên việc tăng cường Tiếng Việt cho các em là hết sức cần thiết.
Chính vì vậy mà nhà trường rất chú trọng, quan tâm nhiều nhất đến việc chất lượng dạy học của giáo viên và học sinh. Nhà trường đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho giáo viên chúng tôi nhưng tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc vẫn luôn là khó khăn riêng mà chỉ những người giáo viên trực tiếp giảng dạy mới thấu hiểu được vấn đề này.
Sau đây là kết quả khảo sát nắm Tiếng Việt của các em học sinh dân tộc lớp 1A từ đầu năm học 2021 – 2022:
Lớp 1A |
H/S không biết chữ cái nào |
H/S biết 5 - 6 chữ |
H/S nhận được bảng chữ cái |
21 HS dân tộc |
3 |
8 |
10 |
Như vậy nhìn bảng khảo sát cho ta thấy tỉ lệ học sinh nhận diện 1 cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái quá thấp dẫn đến kết qủa học còn chưa cao.
Một trong những lí do dễ thấy là vì do xã vùng sâu vùng xa, còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu thốn, các em chưa được sự quan tâm của gia đình, địa phương, các em chưa chăm chỉ học đặc biệt là khi về nhà, ảnh hưởng về cách nói, cách diễn đạt của tiếng mẹ đẻ mà đại bộ phận học sinh có khi hiểu nhưng lại diễn đạt sai dẫn đến hiểu sai nghĩa, Vì vậy là giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình chung của lớp cũng như của từng đối tượng học sinh, phát huy những mặt tích cực của học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn luôn cảm thấy nhẹ nhàng và thích thú. Giáo viên phải thường xuyên gần gũi yêu thương động viên kịp thời để học sinh thích thú khi đi học .
Sau khi được phân công dạy lớp 1A. Tôi thật buồn có em còn chưa biết nói tiếng kinh, có em chưa nắm được hết chữ cái. Qua kết quả khảo sát đầu năm, tôi rất lo lắng. Tôi luôn nhận thức được tầm quan trọng của việc tăng cường rèn cho học sinh tôi tự nhủ điều đầu tiên cần làm là: xây dựng môi trường học tập thân thiện, phân loại các đối tượng học sinh, giáo dục ý thức học tập cho học sinh, thường xuyên quan tâm chú trọng tới học sinh đọc chậm, viết chậm. Cụ thể là gặp gỡ phụ huynh đến từng gia đình, bàn bạc thống nhất về thời gian biểu cũng như phương pháp học tốt nhất cho con em mình.
Tìm tòi nghiên cứu các phương pháp hay nhất qua sách báo, các kì thi giáo viên dạy giỏi các cấp để áp dụng vào các tiết dạy thực tế trên lớp mình, đi dự giờ đồng nghiệp, trao đổi học hỏi kinh nghiệm tìm ra phương pháp tối ưu nhất.
Luôn quan tâm tới chỗ ngồi của học sinh, dành thời gian gần gũi với các em thông qua các giờ ra chơi, cuối buổi tan trường nhằm củng cố, khắc sâu lại kiến thức mới cho các em. Sau mỗi buổi học tôi không quên động viên khen thưởng các em học sinh đọc chậm có tiến bộ bằng những tràng pháo tay trước lớp, hoặc một quyển vở, cây bút, hộp màu… để khuyến khích, động viên các em kịp thời.
Cuối cùng tôi đã tìm ra biện pháp hay để tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số đó là “tích hợp một số trò chơi dân gian trong dạy học ở lớp 1A”
3. Nội dung và hình thức của giải pháp.
a. Mục tiêu của giải pháp:
Để tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, giúp các em có cách nắm vững các kỹ năng về nghe - nói- đọc- viết của tiếng Việt, để các em học sinh dân tộc thiểu số học tập tốt hơn ở các môn học. Giúp cho các em làm quen với việc sử dụng nhiều từ ngữ khác nhau của tiếng Việt, góp phần làm phong phú thêm vốn từ cho học sinh. Giúp các em dễ hiểu dễ nhớ về nghĩa của từ thông qua các hình ảnh trực quan, nói đúng cấu trúc câu theo mẫu, hạn chế cách nói ngược theo tiếng địa phương. Giúp học sinh có kĩ năng xây dựng tiếng, từ mới rất phong phú và dần dần đọc được các bài thơ, đoạn văn, tập cho học sinh khả năng diễn đạt theo tình huống. Giúp học sinh có thái độ hào hứng và phấn khởi tham gia sôi nổi nhiệt tình, tự tin trong học tập, giao tiếp với bạn bè với thầy cô giáo bằng tiếng Việt
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
Biện pháp 1: Thống kê phân loại đối tượng học sinh.
Đây được xem là biện pháp chủ chốt trong thành công của đề tài. Bởi nếu giáo viên nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lí từng em để phân loại theo nhóm đối tượng thì việc tổ chức các trò chơi sẽ mang lại hiệu quả cao. Bởi học sinh dân tộc luôn có những tính cách đặc trưng riêng bởi vì tôi là giáo viên người dân tộc nên tôi rất hiểu tâm lí các em.
Do đó căn cứ vào kinh nghiệm của bản thân, sự theo dõi trong quá trình dạy học và sự kết hợp với gia đình tôi đã phân loại đối tượng học sinh thành 3 nhóm:
- Nhóm 1: Gồm những em năng động, hay nói, hay phát biểu thường tính chủ định không bền vững.
- Nhóm 2: Gồm những em ít nói, ít giao tiếp, nhút nhát trong phát biểu, ít thổ lộ tình cảm ra bên ngoài.
- Nhóm 3: Gồm các em học sinh còn lại
Sau khi đã phân loại được đối tượng theo nhóm thì khi tổ chức trò chơi tôi thường đảo những em ở nhóm 2 chơi cùng với những em ở nhóm 1 và thêm một vài em ở nhóm 3 (tức là có em ít nói chơi cùng em hay nói,…) với mục đích là tạo sự gần gũi, thân thiện các em với nhau trong nhóm. Khích lệ những em ít nói mạnh dạn tham gia phát biểu, thảo luận, chơi,…đồng thời giảm sự hiếu động quá khích (nói nhiều dẫn đến nói chuyện riêng,…) đối với những em hay nói, năng động.
Biện pháp 2: Lựa chọn những trò chơi phù hợp với đối tượng học sinh.
Sau khi đã phân loại được đối tượng học sinh tôi tiến hành lựa chọn một số trò chơi dân gian bổ ích, phát huy được khả năng nghe, đọc nói viết Tiếng Việt cho các em.
Sau khi lựa chọn được một số trò chơi tôi phân ra hai loại để tổ chức nhằm đảm bảo thời gian hợp lý và tính khả thi trong tăng cường Tiếng Việt cho các em.
* Nhóm trò chơi nhỏ, nhanh: hoa búp – Hoa tàn; Trời ta – Đất ta; Trán - cằm – tai; Ai nhanh – Ai đúng; Xì điện;…Những trò chơi này tôi thường sử dụng nhanh trong giờ học.
* Nhóm trò chơi lớn: Tổ chức vào các buổi ngoại khóa, các hoạt động ngoài giờ lên lớp,…
- Trò chơi: Bảo vệ đàn con (dựa vào trò chơi rồng rắn lên mây để tôi thiết kế lại cho phong phú và hấp dẫn tránh sự nhàm chán của học sinh).
- Trò chơi: Xòe bàn tay (dựa vào trò cho chi chi chành chành tôi đã thiết kết lại cho phong phú và hấp dẫn tránh sự nhàm chán của học sinh).
- Trò chơi: Ai đọc chuẩn nhất (Dựa vào các bài vè, bài đồng dao tôi thiết kế lại để tổ chức chơi cho các em phong phú)
Biện pháp 3: Tích hợp trò chơi trong các tiết học.
Đây là một trong hai biện pháp chính của đề tài này nhằm phát huy tính tự giác, tinh thần hoạt động tập thể để từ đó các em nâng cao Tiếng Việt trong giao tiếp.
* Hình thức tổ chức tích hợp như sau:
- Đối với trò chơi nhỏ tôi thường tích hợp trong mỗi tiết dạy phân môn Học vần, môn Đạo Đức hay môn Toán. Mỗi tiết dạy, mỗi trò chơi tôi thường biến hóa dựa trên nội dung bài học để gây sự chú ý của các em, tạo không khí thân thiện gần gũi và đặc biệt khuyến khích được những học sinh ít nói, nhút nhát tăng cường giao lưu để phát huy Tiếng Việt trong giao tiếp.
Ví dụ: Khi dạy đến bài Học vần K – Kh
+ Sau khi tổ chức xong các hoạt động chính của bài học, chuyển sang phần luyện nói thì tôi lại lồng ghép vào trò chơi: “Ai nhanh – Ai đúng” với mục tiêu là giảm căng thẳng tiết học, tăng cường khả năng giao tiếp và cung cấp vốn từ Tiếng Việt cho các em.
Cách chơi như sau: Tôi sẽ hô các cụm từ và học sinh phải hô theo tôi đồng thời chỉ đúng vị trí nghĩa của cụm từ vừa nêu. Học sinh nào nói nhanh và chỉ đúng tôi sẽ thưởng cho em đó (phần thưởng là những món quà nhỏ như cục tẩy, cái viết chì hay là những tràng pháo tay động viên khuyến khích,…)
Khi giáo viên hô: “Tay đâu – tay đâu”
Học sinh hô đáp: “tay đây - tay đây”
Giáo viên hô: “Đưa tay ra nào” (học sinh đưa tay ra trước mặt)
Giáo viên hô: “Khủy tay” thì học sinh phải hô theo : “Khuỷu tay” và đồng thời chỉ vào khuỷu tay của mình. Ai chỉ đúng nói nhanh sẽ được thưởng.
Và tôi tăng dần độ nhanh các cụm từ và đảo nhanh các vị trí để tăng khả năng quan sát cũng như phát âm Tiếng Việt của các em: “khóe mắt”, “Đeo kính”, “Khớp tay trái”, “Khớp tay phải”, “Khuyên tai”,…
Tôi lựa chọn các cụm từ có nghĩa trên cơ thể các em và có âm k – Kh. Như vậy vừa chơi mà lại vừa học đồng thời tăng cường được Tiếng Việt cho các em.
Cứ mỗi tiết dạy tôi lại sử dụng 2 đến 3 trò chơi nhỏ và chỉ kéo dài 3 đến 5 phút giữa tiết hoặc cuối tiết học.
Tương tự cách tổ chức như trên, ở các tiết học Đạo Đức hay môn Toán, tôi lại lựa chọn thêm những trò chơi phù hợp với nội dung bài để tăng cường Tiếng Việt cho các em.
Ví dụ khi dạy môn Đạo đức, ở tiết thực hành kĩ năng cuối kì I, sau phần làm xong các nội dung trong sách giáo khoa, tôi tổ chức một số trò chơi nhỏ cuối tiết học.
Tôi lựa chọn các trò chơi như: :Nhanh tay, nhanh mắt”; “Ai đúng, ai sai”, …
Tôi đọc một câu nhanh, học sinh sẽ điền từ còn thiếu trong câu đó:
+ Đi học đầu tóc phải…… học sinh phải nêu được từ (gọn gàng)
+ Trong nhà anh chị em phải…… học sinh phải nêu được từ (đoàn kết hoặc thương yêu hoặc giúp đỡ)
+ Khi chào cờ áo quần phải…………. học sinh phải nêu được từ (chỉnh tề hoặc gọn gàng)
+ Với thầy, cô giáo học sinh phải….. học sinh phải nêu được từ (lễ phép)
Cứ như vậy tôi thay đổi các trò chơi nhỏ cho mỗi tiết dạy để thu hút các em tham gia một cách nhiệt tình, sôi nổi, tránh cho tiết học căng thẳng, nhàm chán. Tuy nhiên dựa vào nội dung của mỗi bài học để lồng ghép trò chơi, có tiết tổ chức được trò chơi nhưng có tiết không thể tổ chức được trò chơi. Điều này phụ thuộc vào mỗi tiết học để giáo viên linh động, sáng tạo và đưa ra những hình thức tổ chức dạy học phù hợp, hấp dẫn và mang lại hiệu quả cao về mục tiêu bài dạy và tăng cường Tiếng Việt cho các em như mục tiêu của nội dung nghiên cứu đề tài.
Biện pháp 4: Tổ chức trò chơi dân gian trong hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Ở trưởng tiểu học ........... trong một tuần có 1 tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp vào sáng thứ tư. Ở tiết học này được bố trí hoạt động chung, có nghĩa là có khi Đội thiếu niên tổ chức tập dân vũ, thi kể chuyện đạo đức Bác Hồ,…có lúc thì giao cho lớp tự tổ chức hoạt động riêng.
Mỗi lúc được tổ chức riêng, tôi thường vận dụng một số trò chơi dân gian vào để tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc.
Ví dụ 1: tôi tổ chức trò chơi: Bảo vệ đàn con (dựa vào trò chơi rồng rắn lên mây để tôi thiết kế lại cho sinh động và phát triển kĩ năng giao tiếp Tiếng Việt cho học sinh dân tộc)
Số học sinh tham gia chơi từ 7 - 11 em, tôi chia thành nhiều nhóm để các em đều được tham gia. Trong mỗi nhóm chơi một trẻ làm "người đến quấy rối" trước một đàn con và một người “mẹ” (hoặc “bố”) bảo vệ đàn con. Các em khác làm con đứng phía sau: “bố” hoặc “mẹ”. (những em nào ít nói nhút nhát thì tôi luôn động viên làm "người đến quấy rối" hoặc “bố” hay “mẹ” nhằm giúp các em tăng cường Tiếng Việt như phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Cách thức chơi như sau:
"người đến quấy rối" đến chơi nhà, dùng những ngôn ngữ đối đáp nhằm chia sẽ đàn con sau lưng người “mẹ” hay “bố”. Nếu đối đáp tốt thì người đến quấy rối sẽ thua. Còn đối đáp không tốt thì “người đến quấy rối”sẽ đuổi đàn con sau lưng mẹ. Bắt được ai thì người đó thua cuộc và ra ngoài. Cứ như thế nếu có từ 3 con bị bắt thì người “người mẹ” cũng sẽ thua. Các câu vè đối đáp như sau, "người đến quấy rối" nói:
Trời xanh mây trắng
Ông Thắng đến nhà
Xin một gói quà
Mà sao không thấy
“người mẹ” đáp lời.
Ấy chết! Ông Thắng
Nhà chẳng có ai
Chỉ đang luộc khoai
Xin mời thầy thắng.
Sao nhà yên ắng
Mà có tiếng reo
Ông sẽ làm theo
Đến mời nhà chị.
Đến câu này thì ông Thắng bắt đầu đuổi
"Người đến quấy rối" đuổi bắt "đàn con", “người mẹ xoay chuyển đứng đầu dang tay cản "thầy thuốc", " Thầy thuốc" tìm mọi cách để bắt được " một em nào" (trẻ cuối cùng). Nếu thầy thuốc bắt được khúc đuôi thì bạn khúc đuôi bị loại khỏi cuộc chơi. Trò chơi lại bắt đầu từ đầu nhưng lúc này rồng rắn chỉ còn 7 bạn chơi, cứ chơi như thế đến khi rồng rắn ngắn dần vì mất bạn chơi. Nếu " rồng rắn" bị đứt khúc hoặc bị ngã thì cũng bị thua.
Ví dụ 2: Một loại trò chơi dân gian nữa đó là trò chơi: “Ai đọc chuẩn nhất”. Trò chơi có tác dụng rất cao cho việc nâng cao kĩ năng sống cho các em. Ở trò chơi này tôi sử dụng vào giờ sinh hoạt ngoài giờ lên lớp và thường tổ chức xen kẽ với các trò chơi dân gian để tránh nhàm chán cho học sinh.
Hình thức tổ chức khá đơn giản. Tôi tập trung học sinh trên một vòng tròn tôi đứng giữa làm quản trò. Tôi đọc một bài vè sau đó cho các em đọc theo từng câu (mỗi em đọc một câu). Ai đọc kịp thì được khen, ai đọc không được hoặc đọc sai sẽ phạt nhảy cò hoặc một vài hình thức phạt vui nhộn khác. Bài vè như sau:
“Nghe vẻ nghe ve Cái vè học dốt Thầy cô dạy tốt Học còn ham chơi Nói chẳng nghe lời Lại còn phản kháng |
Thầy cô phát ngán Vì phải nói nhiều Dù nói đủ điều Nhưng mà vẫn vậy Chứng nào tật nấy Nào có sửa đâu |
Em mong cô thầy Kiên trì nhẫn nại Bảo ban em lại Tiến vào tương lai Mai sao thành tài Công ơn nhớ mãi. |
Mỗi buổi học tôi lại đổi một bài vè khác. Đây là những bài vè thú vị tôi sưu tầm trên mạng Internet để tổ chức chơi cho các em. Với hình thức này tôi đã giúp các em học sinh dân tộc thiểu số tăng cường Tiếng Việt của mình từng bước để cuối năm kiến thức cũng như vốn từ của các em đạt được mức độ nhất định.
Ngoài ra rồi còn sử dụng nhiều trò chơi tương tự như đã trình bày trên nhằm thay đổi không khí, tránh sự nhàm chán và phát huy khả năng nói, viết Tiiéng Việt của các em.
c. Mỗi quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
- Tăng cường giao tiếp bằng Tiếng Việt mọi lúc, mọi nơi, đôi khi giáo viên phải phiên dịch tiếng mẹ đẻ - tiếng Việt và ngược lại để học sinh hiểu.
- Ngoài các trò chơi như đã nêu trên chúng ta cần cho học sinh xem phim, tranh ảnh và nên hỏi nhiều câu hỏi để học sinh trả lời, vừa học tiếng Việt vừa có phần giải thích bằng tiếng dân tộc nếu học gặp khó khăn hay không hiểu trong rèn đọc và đọc hiểu tiếng việt.
Tiến hành các hoạt động thường xuyên:
- Tăng thời gian quản lý và giảng dạy đặc biệt là các phân môn tiếng Việt cho các em ở trường để giám sát hoạt động học tập của học sinh.
- Tổ chức các hoạt động ngoại khóa với mục đích tạo môi trường thân thiện để khích lệ các em giao lưu và thực hành tiếng Việt mọi lúc mọi nơi, chú trọng giáo dục song ngữ cho học sinh.
Chúng ta thấy rằng các em học chung ngôn ngữ của nhau dễ hòa đồng với nhau. Tuy nhỏ song các em cũng có lòng tự trọng thấy bạn hơn và lại vẽ cho mình thì mình cũng phải cố gắng học để đỡ thua kém bạn. Từ đó, chất lượng học sinh trong lớp tương đối đồng đều. Song không ỷ lại cho học sinh học tốt mà tôi vẫn thường xuyên quan tâm giúp đỡ những học sinh chưa hoàn thành. Kiểm tra chấm bài nhận xét, tuyên dương kịp thời vào các buổi học thứ hai nhằm củng cố cho các em về kiến thức một cách vững vàng hơn.
Hầu hết thầy cô giáo đều nắm rõ phương pháp dạy học nhưng đổi mới phương pháp dạy học thì không phải ai cũng làm tốt, làm thường xuyên và trở thành kĩ năng trong việc giảng dạy. Bên cạnh tìm tòi chọn lựa và áp dụng phương pháp dạy học mới phối hợp hợp lí phương pháp đặc trưng bộ môn với các phương pháp dạy học khác thì đòi hỏi mỗi thầy cô phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa giải pháp và biện pháp trong từng tiết học. Thầy cô phải luôn có ý thức thay đổi phương pháp và hình thức tổ chức dạy học qua mỗi tiết dạy để học sinh thật sự thích thú trong việc học, học mà chơi, vui mà học. Giáo viên phải chú ý giúp học sinh biết theo dõi, nhận xét bài đọc, câu hỏi, câu trả lời, kết quả bài đọc của bạn trong lớp đó là cách để nâng cao năng lực tự học.
Trong từng tiết dạy, giáo viên tổ chức các hoạt động học tập để tránh nhồi nhét, áp đặt cho học sinh, việc gì các em làm được thì thầy cô không làm thay. Thay đổi một trò chơi học tập hoặc cách hỏi và trả lời, cách sử dụng một đồ dùng dạy học, cách xử lí một tình huống sư phạm, thậm chí một ánh mắt nụ cười hay một thao tác nhỏ của thầy cô trong giờ học cũng mang lại sự đổi mới phương pháp dạy học thì tiết học sẽ mang lại hiệu quả cao nhất.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và hiệu quả ứng dụng.
Trong quá trình áp dụng các biện pháp, phương pháp trên để tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1A. Tôi đã gặt hái được những kết quả đáng khích lệ như sau:
- Hết phần học âm (chữ) 76% học sinh lớp tôi dạy đều nắm vững chữ, âm và đọc được tiếng, từ một cách chắc chắn.
- Đến phần vần: Học sinh nắm vần tốt nhờ học kĩ cấu tạo các nét cơ bản và các âm.
- Xây dựng tiếng, từ mới rất phong phú và dần dần đọc được các đoạn văn hay bài văn dài.
Kết quả tăng cường rèn kỹ năng đọc qua đợt kiểm tra cuối năm học 2017 - 2018 như sau:
TSHS Lớp 1a3 |
Đọc lưu loát |
Đọc đúng |
Đọc đúng nhưng còn chậm |
Đọc chưa thành thạo |
25 |
12 |
6 |
6 |
1 |
Tuy đây là một đề tài nghiên cứu về tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, nhưng với hnững trò chơi dân gian bổ ích đã nêu trong đề tài thì vẫn có thể áp dụng được với mọi đối tượng học sinh tiểu học.
Phạm vi áp dụng của đề tài là học sinh khối lớp 1, 2 trong trường tiểu học.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh đồng bào dân tộc thiểu số ở lớp 1 là một nhiệm vụ hết sức cần thiết. Đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ và đồng thuận từ các cấp lãnh đạo đến đội ngũ giáo viên.
Với bản thân tôi, vừa là một giáo viên người đồng bào dân tộc thiểu số vừa giảng dạy học sinh đồng bào nên tôi rất hiểu về tâm sinh lí các em. Do đó tôi thấu hiểu đươc nỗi vất vả của những đồng nghiệp, những giáo viên đang dạy học sinh dân tộc như tôi.
Đề tài “Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số qua một số trò chơi dân gian” mà tôi đã trình bày như trên cũng là một trong những nỗ lực của bản thân với một mục tiêu duy nhất là làm sao để học sinh nghe, đọc, nói, viết Tiếng Việt thành thạo để các em có điểm tựa học tập các môn học khác ở những lớp cao hơn.
Tuy nhiên nội dung nghiên cứu của đề tài chỉ mới nghiên cứu bước đầu. Có tính khả thi, có hiệu quả nhưng vẫn còn gặp nhiều thiếu sót trong quá trình nghiên cứu và triển khai. Tôi mong rằng, sau khi phát hành, công bố nội dung này trước Hội đồng khoa học giáo dục cũng như các giáo viên đang giảng dạy, tôi sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp để tôi tiếp tục hoàn thiện và nâng cao nội dung nghiên cứu của mình để giúp các em học sinh đồng bào dân tộc thiểu số học tốt hơn Tiếng Việt.
2. Kiến nghị:
+ Về nhà trường: Cần tổ chức phụ đạo riêng số học sinh đọc chậm ngay từ đầu năm học.
+ Về giáo viên: phải biết sử dụng và lựa chọn linh hoạt các phương pháp hình thức tổ chức dạy học. Phải thực sự quan tâm yêu thương gần gũi và tạo không khí vui vẻ khi học, giúp các em học tập yêu thích môn học .
+ Về phụ huynh: Cần thật sự quan tâm tới việc học của con em mình, đặc biệt là việc học và làm các bài tập ở nhà, kết hợp tốt với giáo viên chủ nhiệm, nhà trường.
Một số biện pháp tích cực gây hứng thú học tập cho học sinh tiểu học
Một số biện pháp tích cực gây hứng thú học tập cho học sinh tiểu học
Miễn phí
Tổ chức một số trò chơi toán học nhằm gây hứng thú học tập cho học...
Tổ chức một số trò chơi toán học nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh lớp 5
Miễn phí
Biện pháp nâng cao kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5
Biện pháp nâng cao kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5
Miễn phí
Biện pháp nâng cao chất lượng học tập môn toán theo định hướng phát...
Biện pháp nâng cao chất lượng học tập môn toán theo định hướng phát triển năng...
Miễn phí
Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp
Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp
Miễn phí
Một số giải pháp nâng cao phẩm chất “Đoàn kết, yêu thương” cho học...
Một số giải pháp nâng cao phẩm chất “Đoàn kết, yêu thương” cho học sinh lớp 5A1...
150,000đ
Một số giải pháp nâng cao tinh thần chăm học trong các buổi học trực...
Một số giải pháp nâng cao tinh thần chăm học trong các buổi học trực tuyến cho...
150,000đ
Một số biện pháp rèn kĩ năng quan sát trong viết văn miêu tả cho học...
Một số biện pháp rèn kĩ năng quan sát trong viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4...
150,000đ
Một số giải pháp nâng cao sự tập trung và chăm chỉ học tập trong môn...
Một số giải pháp nâng cao sự tập trung và chăm chỉ học tập trong môn Toán lớp 4...
150,000đ
Một số biện pháp nâng cao tinh thần học tập môn Lịch sử lớp 4
Một số biện pháp nâng cao tinh thần học tập môn Lịch sử lớp 4
150,000đ
Một số trò chơi giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Toán
Một số trò chơi giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Toán
150,000đ
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 phát huy tính tích cực, tự giác...
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 phát huy tính tích cực, tự giác trong học...
150,000đ